Nhắc đến thơ ca truyền thống Nhật Bản, người ta thường nghĩ ngay đến Haiku. Bởi lẽ đây là một thể thơ rất Nhật Bản, là linh hồn văn hóa của đất nước mặt trời mọc. Haiku là sự dung hợp và kết tinh của nhiều giá trị văn hóa tinh thần của người phương Đông nói chung và người Nhật nói riêng.
Haiku - 俳句 (bài cú hoặc hài cú) là tên gọi của một thể loại thơ cực ngắn chỉ gồm 3 câu, vô cùng độc đáo ra đời ở Nhật Bản và được xem là niềm tự hào thi ca của xứ Phù Tang.
Ảnh: papik.pro
Thơ Haiku được cho là xuất phát từ Tanka (đoản ca), thể thơ tiêu biểu nhất của Waka - tên gọi chung của thơ viết bằng tiếng Nhật để phân biệt với Hán thi (về sau, người ta dùng từ Tanka đồng nhất với Waka).
Mỗi bài thơ theo thể Tanka có 31 âm tiết, chia thành 5 dòng theo nhịp phách 5-7-5-7-7. Từ thế kỷ 14 đến 15, khi Tanka bắt đầu có dấu hiệu đi xuống, trên thi đàn Nhật Bản xuất hiện thể Renga (liên ca) - cũng có nhịp phách như Tanka nhưng tách thành hai phần 5-7-5 và 7-7 rõ rệt và không hạn chế về số lượng câu.
Renga vốn dĩ là trò chơi nối thơ của các thi sĩ Tanka. Trong bài Renga liên hoàn, khổ đầu được gọi là hokku (phát cú) và quy chiếu theo mùa trong năm. Đến thế kỷ 16, trò chơi nối thơ rất được công chúng yêu thơ xứ Phù Tang ưa chuộng, vì vậy Renga ngày càng trở nên phổ biến và bình dân hơn, thậm chí được làm với mục đích trào phúng.
Ảnh: nansuka.jp
Phần đầu Hokku của một bài Renga chính là tiền thân của thơ Haiku. Tuy nhiên, thuật ngữ Haiku (đọc theo âm Hán Việt là bài cú hay hài cú) không phải xuất hiện từ thời thịnh thế của thể thơ này mà ra đời vào năm 1890 theo đề xướng của nhà thơ Masaoka Shiki (1867-1902) dùng để chỉ những bài thơ ngắn gồm 3 câu, 17 âm tiết đứng độc lập được bố trí theo thứ tự 5-7-5.
Mặc dù khó có thể xác định chính xác thời điểm ra đời của Haiku, song thể thơ Nhật Bản độc đáo này rất thịnh hành vào thế kỉ 17 và phát triển mạnh trong thời Edo (1603 – 1867). Lúc bấy giờ, Haiku đã dần mất đi sắc thái hóm hỉnh, trào lộng nguyên thủy và thay vào đó là âm hưởng bàng bạc, sâu thẳm của Thiền tông.
Chỉ với vỏn vẹn 17 âm tiết gói gọn trong 3 câu thơ, Haiku được xem là thể thơ ngắn nhất thế giới. Trong nguyên bản tiếng Nhật, 17 âm tiết được viết thành một dòng nhưng khi phiên âm sang Romaji (hệ thống ký tự Latin) thường được ngắt thành 3 dòng theo phách 5-7-5.
Trong thơ Haiku, thiên nhiên, mùa màng là đề tài thường được nhắc đến nhiều nhất và được gọi là kidai (quý đề). Nhưng làm sao có thể vẽ nên bức tranh thiên nhiên rộng lớn với những âm thanh màu sắc đặc trưng của mùa, dưới một hình thức thơ ngắn gọn, cô đọng chỉ giới hạn trong 17 âm tiết?
Để làm được điều đó, mỗi bài thơ Haiku bắt buộc phải có kigo (quý ngữ) - những từ hoặc cụm từ liên quan đến một mùa. Thơ Haiku hiếm khi nói rõ xuân, hạ, thu, đông thế nhưng độc giả vẫn có thể cảm nhận và hiểu được mùa nào đang được nhắc đến qua những hình ảnh biểu trưng như hoa anh đào, hoa mẫu đơn, lá vàng, tuyết trắng...
Ảnh: wallpaperaccess.com
Chẳng hạn trong bài thơ dưới đây của tác giả Basho, hình ảnh mùa xuân xứ Phù Tang hiện lên đầy chân thực qua khung cảnh người người tụ tập dưới tán cây anh đào để thưởng ngoạn vẻ đẹp mê đắm lòng người của những bông hoa mỏng manh:
Trong khúc quạt xòe
nâng chén rượu
hoa anh đào rơi
(Matsuo Basho)
Người Nhật đặc biệt ưa chuộng vẻ đẹp đơn sơ, bình dị, mộc mạc của cảnh vật xung quanh, cái đẹp ẩn tàng trong những hình thức tưởng chừng như không có gì đặc sắc.
Wabi chính là sự cảm nghiệm về trạng thái thanh bần an lạc, dung dị nhưng thanh cao của cuộc sống con người và sự vật. Đó chính là một cảm giác im lặng, thư thái, trong sạch mà các ẩn sĩ luôn muốn đi tìm.
Sabi là một khái niệm thẩm mỹ trong thế giới quan của văn hoá Nhật Bản, là cảm thức về sự tĩnh mịch sâu xa của sự vật. Sự cô đơn ở Sabi là “niềm cô đơn huy hoàng”, là cảm thức hùng tráng chứ không phải nỗi cô đơn cá nhân, không mang tính bị lụy.
Ảnh: allbusinessnames.com
Từ cảm thức Sabi đi vào cảm thức Yugen là một hành trình mang tính tiếp nối. Yugen có nghĩa là bí ẩn. Những gì không thể hiển hiện trong từ ngữ cũng như không thể nhìn thấy rõ được bằng mắt, thế giới thẩm mỹ mà con người có thể cảm nhận được bằng giác quan chính là Yugen. Yungen là sự mơ hồ về nhận thức, bắt buộc con người phải suy ngẫm, đốn ngộ.
Từ cái nhìn sâu thẳm về một sự vật huyền diệu nào đó trong khoảnh khắc, khiến cho tâm hồn ta xao xuyến ngất ngây, khát khao hòa nhập vào. Nó đem tâm hồn ta chìm đắm trong thế giới mênh mang, lãng đãng, u huyền.
Aware là niềm bi cảm, xao xuyến rung động trước cảnh sinh ly tử biệt hay vẻ đẹp não lòng, chóng vánh có tác động đến tâm thức. Aware mang hàm nghĩa đau thương, nỗi buồn thấm đượm cảm thức vô thường.
Khi nói về thơ Haiku Nhật Bản, không thể không nhắc đến bốn nhà thơ được xem là những bậc thầy của loại hình nghệ thuật này: Matsuo Basho, Yosa Buson, Kobayashi Issa và Masaoka Shiki. Trong đó, nhà thơ Matsuo Basho có lẽ quen thuộc với độc giả Việt Nam hơn cả vì những thi phẩm của ông đã được đưa vào chương trình sách giáo khoa ngữ văn lớp 10.
Là một thiền sư thi sĩ lỗi lạc có thể nói là danh tiếng nhất của thời Edo, Matsuo Basho (1644 - 1694) tên thật là Matsuo Munefusa, sinh ra trong một gia đình võ sĩ cấp thấp dưới thời Tokugawa (1603 – 1858). Lúc mới ra đời, ông được đặt tên là Matsuo Kinsaku, còn Basho là bút danh, có nghĩa là cây chuối trong tiếng Nhật.
Ảnh: Nippon
Nhà thơ Matsuo Basho được thừa nhận là người phát triển những câu đầu (phát cú) của thể renga (liên ca) có tính hài hước gọi là Renga no Haikai thành một thể thơ độc lập mang âm hưởng sâu thẳm của Thiền đạo. Về sau, Masaoka Shiki hoàn thiện sự tách biệt này thêm nữa và chuyển sang gọi nó là thể Haiku (bài cú hay hài cú). Tác phẩm của ông không chỉ nổi tiếng trong phạm vi Nhật Bản mà còn có tầm ảnh hưởng quốc tế.
Basho cũng được phong thần trong nhiều ngôi đền thờ Thần đạo, thậm chí có đền còn lấy tên theo một câu thơ của ông.
Yosa Buson (1716-1784), được biết đến là thi sĩ và họa sĩ nổi tiếng trong thời kỳ Edo. Nhà thơ có tên thật là Tainiguchi Buson, quê ở làng Kema, tỉnh Settu, ngoại ô thành Osaka. Năm 1937, ông chuyển lên Edo để học vẽ và làm thơ, chính trong thời gian này Buson có cơ hội tiếp thu tinh hoa của thể thơ Haiku truyền thống.
Được xem là người tiếp nối Matsuo Basho, Buson có công đầu trong việc vực dậy thể thơ Haiku khỏi sự suy đồi sau khi nhà thơ này tạ thế, bên cạnh đó ông còn thổi vào Haiku một luồng gió mới, đó là những yếu tố lãng mạn mà trong thơ Basho còn thiếu.
Kobayashi Issa (1763 – 1828) tên thật là Kobayashi Nobuyuki, là con trai trưởng trong một gia đình nông dân ở làng Kashihara, tỉnh Nagano. Mồ côi mẹ khi mới 3 tuổi, Issa trải qua tuổi thơ thiếu thốn tình thương, thậm chí cảm thấy bị ghẻ lạnh trong chính ngôi nhà của mình vì vậy cuộc sống của ông dường như luôn cô đơn, lạc lõng.
Ảnh: Wikipedia
Từ năm 1787, ông lấy bút là Issa và bắt đầu sáng tác thi ca trên tinh thần phục hưng phong cách tao nhã của Basho. So với các bậc tiền bối, Issa không mực thước như Basho, không cách tân ấn tượng như Buson. Thay vào đó, ở Issa, người ta bắt gặp những vần thơ chất chứa những nỗi buồn, u uất, bi ai; đem đến những cái nhìn về trần thế, về cuộc đời và những nỗi lo lắng về tương lai.
Masaoka Shiki (1867-1902) tên thật là Masaoka Tsunenori, sinh ra tại Matsuyama, Iyo (tỉnh Ehime ngày nay) trong một gia đình võ sĩ đạo. Có mẹ là con gái của một học giả theo tư tưởng Khổng giáo, ngay từ khi còn nhỏ Shiki đã được tiếp cận với học thuyết của Mạnh Tử dưới sự kèm cập của ông ngoại.
Ảnh: ndl.go.jp
Về sự nghiệp văn chương, Masaoka Shiki được ghi nhận là một trong tứ đại thụ của thể thơ Haiku Nhật Bản trước thời hiện đại, cùng với các nhà thơ Matsuo Basho, Yosa Buson, Kobayashi Issa. Ông cũng là một trong những nhà tiên phong trong công cuộc cách tân thơ Haiku trong thời kỳ cận đại. Thơ Haiku của Shiki có sự mới mẻ về cả hình thức cấu trúc lẫn nội dung.
1.
Bỏ lên chiếc quạt nhỏ
Từ Phú Sĩ gửi đi ngọn gió
Một chút quà Edo
(Matsuo Basho)
2.
Ao cũ.
Con ếch nhảy vào
Vang tiếng nước xao
(Matsuo Basho)
3.
Tiếng chuông chùa lặng im
Mùi hương hoa còn đọng bên thềm
Buông xuống dần màn đêm
(Matsuo Basho)
4.
Sau tuần trà buổi sáng
Trong lòng vị tăng thật yên ắng
Ngoài sân hoa cúc vàng
(Matsuo Basho)
5.
Nghiên mực
pha sương hoa cúc
nhận hồn đời
(Yosa Buson)
6.
Gần xa đâu đây
nghe tiếng thác chảy
lá non tràn đầy
(Yosa Buson)
7.
Con sên nhỏ
Hãy leo lên đỉnh Phú Sĩ
Nhưng chậm thôi, chậm thôi
(Kobayashi Issa)
8.
Yên tĩnh…
Sâu dưới đáy hồ
Một núi mây
(Kobayashi Issa)
9.
Hãy đến đây
Chơi với tôi
Chim sẻ mồ côi
(Kobayashi Issa)
10.
Cây chất chồng
ánh hừng đông
len vào ô cửa nhỏ
(Masaoka Shiki)
11.
Một mảnh trăng tròn
bên trời đầy sao
xanh thẳm
(Masaoka Shiki)
Thơ Haiku tự do Nhật Bản khởi đầu từ Hekigoto Kawahigashi (1873-1937) và sau đó được tiếp nối bởi Seisensui Ogiwara (1884-1976), Hosai Ozaki (1885-1926), và Santoka Taneda (1882-1940)... Đặc trưng của trường phái này là không cần đến quý ngữ và không câu nệ vào hình
thức 5/7/5 như thơ Haiku truyền thống. Hosai Ozaki có thể được xem là nhà thơ thành công nhất của trường phái thơ Haiku tự do với nhiều thi phẩm được đánh giá là đặc sắc khó quên.
Những năm qua, thể thơ độc đáo từ xứ Phù Tang đã trở thành món ăn tinh thần của công chúng yêu thơ Việt Nam, các âu lạc bộ và cuộc thi sáng tác thơ Haiku cũng xuất hiện ngày càng nhiều.
Tuy nhiên, do sự khác biệt về văn hóa, quan điểm thẩm mỹ, cảm thức về thiên nhiên và con người, thơ Haiku do người Việt sáng tác không chỉ kế thừa những đặc điểm của thể loại gốc mà còn có sự phát triển đầy sáng tạo, phá cách.